Hiển thị các bài đăng có nhãn Dai hoc nhat. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Dai hoc nhat. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Thi tuyển sinh đại học ở Nhật bản

thi đại học ở nhật, thi dai hoc o nhat, thi đại học ở nhật bản, thi dai hoc o nhat ban, đại học tại nhật, đại học tại nhật bản, dai hoc tai nhat, dai hoc tai nhat ban, dai hoc nhat, đại học nhật, đại học nhật bản, dai hoc nhat ban, học đại học ở nhật, hoc dai hoc o nhat, học dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật, học đại học tại nhật bản,
dai hoc nhat banHàng năm, Nhật bản có đến hàng triệu sinh viên tham gia kỳ nhập học mới, tại các trường đại học, cao đẳng tranh đua nhau tuyển sinh để đảm bảo số lượng đào tạo, thế nhưng không ít trường vẫn dư thầy thiếu trò. Để giải quyết tình trạng này, chính phủ luôn tạo ra cơ hội cho nhiều du học sinh quốc tể vào học, nhằm thúc đẩy quan hệ giáo dục giữa Nhật bản với các nước và quản bá được hình ảnh Nhật bản đến bạn bè năm châu.
Đến nay, Nhật bản được nhiều người trên thế giới biết đến và hằng năm có đến hàng triệu người đến Nhật du lịch, học tập và làm việc.

Thuận lợi đặc biệt dành cho sinh viên quốc tế

Trong hầu hết kỳ thi tuyển sinh đầu vào đại học, trường sau đại học hoặc các trường hướng nghiệp, kỳ thi đầu vào đặc biệt được tổ chức cho sinh viên quốc tế nhằm lựa chọn những sinh viên có khả năng theo đuổi việc học tại một môi trường học thuật khác biệt so với hệ thống giáo dục tại nước họ. So sánh với kỳ thi dành cho sinh viên người Nhật thì nội dung kỳ thi dành cho sinh viên ngoại quốc phần nào dễ hơn. Do đó sinh viên ngoại quốc có rất nhiều cơ hội vượt qua kỳ thi đầu vào đầy thử thách này.

Nội dung kỳ thi : bao gồm:

1.    Kỳ thi chấp thuận vào đại học Nhật dành cho sinh viên quốc tế (EJU)
2.    Kỳ thi năng lực Nhật Ngữ
3.    Tiếng Anh : TOEFL…
4.    Thi viết
5.    Viết luận ngắn bằng tiếng Nhật
6.    Phỏng vấn
Tùy thuộc vào trường mà bạn nộp đơn, nội dung của bài thi có thể thay đổi.

Kỳ thi chấp thuận vào đại học Nhật dành cho sinh viên quốc tế (EJU)
95% các trường quốc gia yêu cầu ứng viên phải tham dự kỳ thi EJU trong khi đó 65% các trường đại học công có yêu cầu này. Nếu không tham dự kỳ thi EJU thì cơ hội lựa chọn các trường đại học của bạn sẽ bị thu hẹp. Vì thế bạn cần cố gắng để vượt qua kỳ thi đó.
dai hoc tai nhat banKỳ thi EJU được tổ thức 2 lần trong năm vào tháng 6 và tháng 12. Có thể được tổ chức tại Nhật hoặc một số quốc gia ở Châu Á.

Kỳ thi EJU được tổ chức ở:

Tại Nhật Bản : Hokkaido, Miyagi, Gunma, Saitama, Chiba, Tokyo, Kanagawa, Ishikawa, Aichi, Kyoto, Osaka, Hyogo, Okayama, Fukuoka và Okinawa .
Tại các quốc gia khác: Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam (Hà Nội, Hồ Chí Minh), Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan, Phi-líp-pin, Malaysia, Mianma, Mông Cổ, Nga.

Những môn thi và lệ phí:

Theo như những yêu cầu của trường đại học mà thí sinh muốn học và nội dung chương trình học mà họ đã lựa chọn, thí sinh chọn những môn thi sau:

1.    Tiếng Nhật như là ngoại ngữ, thời gian 120 phút, điểm: 0-400

2.    Khoa học (Vật lý, Hóa học, Sinh học), thời gian 80 phút, điểm: 0-200

3.    Toán học khóa 1 dành cho khoa nghệ thuật hoặc toán học khóa 2 dành cho những khoa khác yêu cầu trình độ toán học cao hơn. Thời gian 80 phút, điểm số :0-200

4.    Nhật bản và thế giới, thời gian 80 phút, điểm số: 0-200
Lệ phí của kỳ thi EJU là 5,460 yên /môn (đã bao gồm thuế) trong khi đó lệ phí thi cho 2 hoặc 3 môn là 10,920 yên ( đã gồm thuế), nhưng lệ phí này có thể thay đổi.

Những môn thi được thiết kế của kỳ thi EJU

Thông thường, thí sinh nộp đơn vào những khoa nghệ thuật tự do phải thi Tiếng Nhật như là ngoại ngữ, Nhật Bản và thế giới, và Toán học khóa 1. Tương tự, thí sinh nộp đơn cho những khoa khoa học phải thi Tiếng Nhật như là ngoại ngữ, toán học khóa 2 và chọn hai môn trong số các môn sau: Vật lý, Hóa học, Sinh học.

Kỳ thi Tiếng Anh:

Một số khoa không yêu cầu kỳ thi tiếng Anh.
Có hai loại kỳ thi Anh ngữ. Thứ nhất là kỳ thi Anh ngữ do trường tổ chức. Thứ hai là thay vì tổ chức kỳ thi đánh giá năng lực tiếng Anh của học sinh, bạn chỉ cần nộp kết quả TOEFL, TOEIC… cho nhà trường. Rất nhiều trường quốc gia yêu cầu sinh viên nộp TOEFL.

Kỳ thi năng lực nhật ngữ JPLT
dai hoc tai nhat banĐến năm 2000, hầu hết các trường đại học hoặc trường đào tạo nghề yêu cầu thí sinh phải nộp chứng chỉ kỳ thi năng lực Nhật ngữ cấp 1 hoặc cấp 2. Số lượng các trường yêu cầu sinh viên phải nộp bảng điểm kỳ thi năng lực Nhật Ngữ JPLT gia tăng kể từ khi kỳ thi EJU xuất hiện vào năm 2001.

Bạn muốn học tiếng Nhật, học Nghề, Cao đẳng, Đại học hay Cao học tại Nhật bản, bạn chưa có nơi tư vấn chọn học cho bạn phù hợp ngành nghề hay học phí chi phí phù hợp. Hãy liên hệ với chúng tôi tư vấn hỗ trợ bạn hoàn toàn
tuyen sinh dai hoc o nhat ban, tuyển sinh đại học ở nhật bản, Thi đại học, thi dai hoc, thi đại học ở nhật, thi dai hoc o nhat, thi đại học ở nhật bản, thi dai hoc o nhat ban, đại học tại nhật, đại học tại nhật bản, dai hoc tai nhat, dai hoc tai nhat ban, dai hoc nhat, đại học nhật, đại học nhật bản, dai hoc nhat ban, học đại học ở nhật, hoc dai hoc o nhat, học dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật, học đại học tại nhật bản, hoc dai hoc tai nhat,

Đại học ở Nhật bản phát triển qua các thời kỳ

đại học nhật, đại học nhật bản, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, đại học ở nhật bản, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật, đại học tại nhât bản, dai hoc o nhat ban, dai hoc tai nhat ban, học đại học nhật bản, hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat ,học đại học tại nhật bản,
dai hoc nhat banNhật bản được xem như một xã hội văn minh, nó được phát triển qua các thời kỳ, thế nhưng chiến tranh và thuộc địa vẫn không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của họ, những giai đoạn phát triển được đánh giá như một móc son sáng chói cho nền khoa học kỹ thuật nước này. Sau đây là những giai đoạn phát triển của hệ thống giáo dục đại học tại Nhật.         
Bốn giai đoạn phát triển của đại học Nhật bản
Bốn giai đoạn phát triển hệ thống giáo dục đại học của Nhật cũng có thể cung cấp cho chúng ta một vài bài học và kinh nghiệm đáng tham khảo. Đáng tham khảo bởi vì Nhật cũng xuất phát từ một nước nông nghiệp, và cũng kinh qua một thời gian chiến tranh khốc liệt.

Giai đoạn 1: Tây phương hóa.
đại học nhật bảnĐược khởi xướng từ thời Minh Trị Thiên Hoàng từ năm 1868. Trong giai đoạn này, Nhật cảm thấy bị đe dọa bởi các thế lực quân sự và kỹ nghệ của thế giới phương Tây, nhưng họ thấy đó là một cơ hội để tái cấu trúc hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế, chuẩn bị cho sự nghiệp kỹ nghệ hóa đất nước. Minh Trị nhận thức rằng Nhật cần phải nắm lấy và làm chủ những “know-how” của phương Tây.

Năm 1877, Đại học Tokyo được thành lập (trước đây trường này chỉ là một trường cao đẳng dạy ngoại ngữ và y học cổ truyền). Đại học Tokyo lúc đó có 4 khoa: luật khoa, khoa học, văn khoa và y khoa. Trong giai đoạn phát triển này, phần lớn giáo sư là người ngoại quốc. Trong số 36 giáo sư, có đến 23 người là giáo sư từ Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Ngay cả những giáo sư người Nhật cũng là những người từng tốt nghiệp từ các nước vừa kể.

Trong thời gian 20 năm sau đó, có đến 400 giáo sư từ các nước phương Tây được Bộ Giáo dục Nhật mướn (hay mời) dạy tại các đại học và cao đẳng trên khắp nước Nhật. Không chỉ trong ngành giáo dục, Nhật còn mướn các chuyên gia phương Tây để làm việc và hướng dẫn trong các ngành như khai thác hầm mỏ, đường sắt, điện lực, điện tín, hãng xưởng…

Cùng lúc với sự hình thành của Đại học Tokyo, Nhật tích cực gửi sinh viên sang các nước phương Tây theo học tại các trường danh tiếng trên thế giới. Những “hạt nhân” đó sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống đại học và chính quyền.

Giai đoạn 2: Cách mạng kỹ nghệ và đại học.
đại học nhật bảnGiai đoạn này được đánh dấu qua việc thiết lập hệ thống “đại học vương triều” (Imperial University System), và định hướng rõ ràng rằng giáo dục phải phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước. Năm 1890, (Đại học) Tokyo Imperial University được cho phép thành lập thêm một khoa mới: đó là khoa nông học. Năm 1897, (Đại học) Kyoto Imperial University được thành lập theo mô hình của Đại học Tokyo. Kể từ đó, một số đại học trong hệ thống vương triều được thành lập, như Tohoku Imperial University (1907), Kyushu Imperial University (1910). Cả hai trường mới này chuyên về khoa học ứng dụng.

Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kỹ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kỹ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kỹ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kỹ nghệ sau này. Các đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kỹ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Mặc dù ý thức được rằng đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các đại học lớn như Tokyo và Kyoto. Song song với sự ra đời của các đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kỹ thuật (technical college). Các trường cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kỹ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kỹ thuật.

Trong thời kỳ này, Nhật còn có một số đại học tư thục, tuy lúc đó các trường này chưa được công nhận là “đại học” mà chỉ là những “trường đặc biệt” (special schools). Mãi đến năm 1918 các trường đại học tư thục mới được chính thức công nhận là đại học. Sau này, một số trường tư thục đó trở thành những đại học danh tiếng. Chẳng hạn như Đại học Keio được thành lập năm 1868 (do gia đình của Fukuzawa Yukichi thành lập), Đại học Doshisa (của Niijima Jo lập năm 1875), Đại học Waseda (do Okuma Shigenobu lập năm 1882) đã có công đào tạo các chuyên gia kỹ thuật và quản lý cho các công ty tư nhân, và đóng góp một phần lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật.

Giai đoạn 3: Hậu chiến và phát triển.
dai hoc nhat banTrong thời gian chiến tranh, Nhật đã làm được một điều kỳ diệu: phát triển đại học và kỹ nghệ. Cuộc chiến Nga - Nhật (1904-1905) là giai đoạn Nhật “củng cố lực lượng” để xây dựng và bành trướng thực lực quân sự. Đến thế chiến 1914-1918 thì thực lực quân sự của Nhật đã được chứng minh.

Thế chiến thứ nhất là động cơ để Nhật tiến hành một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ hai. Trong cuộc cách mạng này, Nhật tập trung vào kỹ nghệ nặng như đóng tàu, sản xuất sắt thép, sản xuất máy kỹ nghệ, hóa học… Trong thời gian 1915-1918, sản lượng kỹ nghệ của Nhật tăng sáu lần, và lần đầu tiên, sản lượng kỹ nghệ qua mặt sản lượng nông nghiệp, biến Nhật thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Năm 1918 đạo luật thành lập các đại học địa phương và đại học vùng ra đời. Đạo luật còn cho phép thành lập các đại học chuyên ngành như đại học chuyên về kỹ thuật, kinh tế, nông học…

Đến năm 1930, Nhật đã có bảy đại học vương triều, với ba đại học mới là Hokkaido, Osaka và Nagoya. Các đại học vương triều mới này chuyên về khoa học và công nghệ. Trong cùng thời gian này, các đại học cũ hơn như Tokyo và Kyoto bắt đầu thành lập các viện nghiên cứu trong và ngoài đại học. Phần lớn các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu về vật lý, hóa học, công nghệ hàng không. Trong giai đoạn này, Nhật đã có một hệ thống đại học hoàn chỉnh và tạo được một nền tảng cho phát triển khoa học kỹ thuật trong tương lai.

Giai đoạn 4: Hoàn thiện.
dai hoc nhat banGiai đoạn phát triển thứ tư này kéo dài từ Thế chiến thứ hai cho đến nay. Trong giai đoạn đầu sau khi Nhật đầu hàng, tương lai nước Nhật nằm trong tay của lực lượng chiếm đóng, và tương lai đất nước còn khá mập mờ. Năm 1949, chính quyền chiếm đóng đề nghị một cuộc tổng cải cách giáo dục trên toàn quốc. Theo đó, tất cả các đại học - từ hệ thống đại học vương triều đến đại học địa phương và tư thục - đều phải theo một chương trình đào tạo thống nhất: đó là bốn năm cho cấp cử nhân. Đến năm 1950, Nhật đã có 201 trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu.

Đến năm 1952, khi Nhật được trao quyền tự trị, tương lai của Nhật có vẻ rõ ràng hơn. Người Nhật nhận thức rõ rằng để tồn tại trên thế giới với sự hạn chế tài nguyên thiên nhiên, Nhật tùy thuộc rất lớn vào khả năng kỹ nghệ. Để phát triển kỹ nghệ, họ cần phải phát triển hệ thống giáo dục đại học đến một tầm cao hơn. Năm 1956, một tài liệu về giáo dục cao đẳng của Anh (White Paper on Technical Education) được dịch sang tiếng Nhật, và trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng, một kim chỉ nam cho hệ thống giáo dục đại học của Nhật sau này.

Năm 1956, Cục Khoa học và Công nghệ được thành lập, và năm 1960 Hội đồng Khoa học và Công nghệ đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học và công nghệ trong vòng 10 năm. Những đề nghị này trở thành định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống đại học cho đến ngày nay.

Ngày nay, Nhật có hơn 725 trường đại học và 518 trường cao đẳng. Chất lượng đào tạo đại học của Nhật được thế giới công nhận. Hiện nay, Nhật có 11 trường đại học được xếp vào hạng “top 200” trên thế giới, với Đại học Tokyo (hạng 19) và Kyoto (hạng 25). Trong thời gian 1997-2001, các nhà khoa học Nhật công bố khoảng 336,858 bài báo khoa học, chiếm 9,3% tổng số bài báo khoa học trên thế giới. Số ấn phẩm khoa học của Nhật đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Anh và Đức
hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật, học đại học tại nhật bản, Dai hoc nhat, dai hoc nhat ban, đại học nhật, đại học nhật bản, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, đại học ở nhật bản, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật, đại học tại nhât bản, dai hoc o nhat ban, dai hoc tai nhat ban, học đại học nhật bản, hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban,