Hiển thị các bài đăng có nhãn hoc dai hoc tai nhat. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hoc dai hoc tai nhat. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Đại học ở Nhật bản phát triển qua các thời kỳ

đại học nhật, đại học nhật bản, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, đại học ở nhật bản, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật, đại học tại nhât bản, dai hoc o nhat ban, dai hoc tai nhat ban, học đại học nhật bản, hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat ,học đại học tại nhật bản,
dai hoc nhat banNhật bản được xem như một xã hội văn minh, nó được phát triển qua các thời kỳ, thế nhưng chiến tranh và thuộc địa vẫn không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của họ, những giai đoạn phát triển được đánh giá như một móc son sáng chói cho nền khoa học kỹ thuật nước này. Sau đây là những giai đoạn phát triển của hệ thống giáo dục đại học tại Nhật.         
Bốn giai đoạn phát triển của đại học Nhật bản
Bốn giai đoạn phát triển hệ thống giáo dục đại học của Nhật cũng có thể cung cấp cho chúng ta một vài bài học và kinh nghiệm đáng tham khảo. Đáng tham khảo bởi vì Nhật cũng xuất phát từ một nước nông nghiệp, và cũng kinh qua một thời gian chiến tranh khốc liệt.

Giai đoạn 1: Tây phương hóa.
đại học nhật bảnĐược khởi xướng từ thời Minh Trị Thiên Hoàng từ năm 1868. Trong giai đoạn này, Nhật cảm thấy bị đe dọa bởi các thế lực quân sự và kỹ nghệ của thế giới phương Tây, nhưng họ thấy đó là một cơ hội để tái cấu trúc hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế, chuẩn bị cho sự nghiệp kỹ nghệ hóa đất nước. Minh Trị nhận thức rằng Nhật cần phải nắm lấy và làm chủ những “know-how” của phương Tây.

Năm 1877, Đại học Tokyo được thành lập (trước đây trường này chỉ là một trường cao đẳng dạy ngoại ngữ và y học cổ truyền). Đại học Tokyo lúc đó có 4 khoa: luật khoa, khoa học, văn khoa và y khoa. Trong giai đoạn phát triển này, phần lớn giáo sư là người ngoại quốc. Trong số 36 giáo sư, có đến 23 người là giáo sư từ Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Ngay cả những giáo sư người Nhật cũng là những người từng tốt nghiệp từ các nước vừa kể.

Trong thời gian 20 năm sau đó, có đến 400 giáo sư từ các nước phương Tây được Bộ Giáo dục Nhật mướn (hay mời) dạy tại các đại học và cao đẳng trên khắp nước Nhật. Không chỉ trong ngành giáo dục, Nhật còn mướn các chuyên gia phương Tây để làm việc và hướng dẫn trong các ngành như khai thác hầm mỏ, đường sắt, điện lực, điện tín, hãng xưởng…

Cùng lúc với sự hình thành của Đại học Tokyo, Nhật tích cực gửi sinh viên sang các nước phương Tây theo học tại các trường danh tiếng trên thế giới. Những “hạt nhân” đó sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống đại học và chính quyền.

Giai đoạn 2: Cách mạng kỹ nghệ và đại học.
đại học nhật bảnGiai đoạn này được đánh dấu qua việc thiết lập hệ thống “đại học vương triều” (Imperial University System), và định hướng rõ ràng rằng giáo dục phải phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước. Năm 1890, (Đại học) Tokyo Imperial University được cho phép thành lập thêm một khoa mới: đó là khoa nông học. Năm 1897, (Đại học) Kyoto Imperial University được thành lập theo mô hình của Đại học Tokyo. Kể từ đó, một số đại học trong hệ thống vương triều được thành lập, như Tohoku Imperial University (1907), Kyushu Imperial University (1910). Cả hai trường mới này chuyên về khoa học ứng dụng.

Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kỹ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kỹ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kỹ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kỹ nghệ sau này. Các đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kỹ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Mặc dù ý thức được rằng đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các đại học lớn như Tokyo và Kyoto. Song song với sự ra đời của các đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kỹ thuật (technical college). Các trường cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kỹ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kỹ thuật.

Trong thời kỳ này, Nhật còn có một số đại học tư thục, tuy lúc đó các trường này chưa được công nhận là “đại học” mà chỉ là những “trường đặc biệt” (special schools). Mãi đến năm 1918 các trường đại học tư thục mới được chính thức công nhận là đại học. Sau này, một số trường tư thục đó trở thành những đại học danh tiếng. Chẳng hạn như Đại học Keio được thành lập năm 1868 (do gia đình của Fukuzawa Yukichi thành lập), Đại học Doshisa (của Niijima Jo lập năm 1875), Đại học Waseda (do Okuma Shigenobu lập năm 1882) đã có công đào tạo các chuyên gia kỹ thuật và quản lý cho các công ty tư nhân, và đóng góp một phần lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật.

Giai đoạn 3: Hậu chiến và phát triển.
dai hoc nhat banTrong thời gian chiến tranh, Nhật đã làm được một điều kỳ diệu: phát triển đại học và kỹ nghệ. Cuộc chiến Nga - Nhật (1904-1905) là giai đoạn Nhật “củng cố lực lượng” để xây dựng và bành trướng thực lực quân sự. Đến thế chiến 1914-1918 thì thực lực quân sự của Nhật đã được chứng minh.

Thế chiến thứ nhất là động cơ để Nhật tiến hành một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ hai. Trong cuộc cách mạng này, Nhật tập trung vào kỹ nghệ nặng như đóng tàu, sản xuất sắt thép, sản xuất máy kỹ nghệ, hóa học… Trong thời gian 1915-1918, sản lượng kỹ nghệ của Nhật tăng sáu lần, và lần đầu tiên, sản lượng kỹ nghệ qua mặt sản lượng nông nghiệp, biến Nhật thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Năm 1918 đạo luật thành lập các đại học địa phương và đại học vùng ra đời. Đạo luật còn cho phép thành lập các đại học chuyên ngành như đại học chuyên về kỹ thuật, kinh tế, nông học…

Đến năm 1930, Nhật đã có bảy đại học vương triều, với ba đại học mới là Hokkaido, Osaka và Nagoya. Các đại học vương triều mới này chuyên về khoa học và công nghệ. Trong cùng thời gian này, các đại học cũ hơn như Tokyo và Kyoto bắt đầu thành lập các viện nghiên cứu trong và ngoài đại học. Phần lớn các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu về vật lý, hóa học, công nghệ hàng không. Trong giai đoạn này, Nhật đã có một hệ thống đại học hoàn chỉnh và tạo được một nền tảng cho phát triển khoa học kỹ thuật trong tương lai.

Giai đoạn 4: Hoàn thiện.
dai hoc nhat banGiai đoạn phát triển thứ tư này kéo dài từ Thế chiến thứ hai cho đến nay. Trong giai đoạn đầu sau khi Nhật đầu hàng, tương lai nước Nhật nằm trong tay của lực lượng chiếm đóng, và tương lai đất nước còn khá mập mờ. Năm 1949, chính quyền chiếm đóng đề nghị một cuộc tổng cải cách giáo dục trên toàn quốc. Theo đó, tất cả các đại học - từ hệ thống đại học vương triều đến đại học địa phương và tư thục - đều phải theo một chương trình đào tạo thống nhất: đó là bốn năm cho cấp cử nhân. Đến năm 1950, Nhật đã có 201 trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu.

Đến năm 1952, khi Nhật được trao quyền tự trị, tương lai của Nhật có vẻ rõ ràng hơn. Người Nhật nhận thức rõ rằng để tồn tại trên thế giới với sự hạn chế tài nguyên thiên nhiên, Nhật tùy thuộc rất lớn vào khả năng kỹ nghệ. Để phát triển kỹ nghệ, họ cần phải phát triển hệ thống giáo dục đại học đến một tầm cao hơn. Năm 1956, một tài liệu về giáo dục cao đẳng của Anh (White Paper on Technical Education) được dịch sang tiếng Nhật, và trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng, một kim chỉ nam cho hệ thống giáo dục đại học của Nhật sau này.

Năm 1956, Cục Khoa học và Công nghệ được thành lập, và năm 1960 Hội đồng Khoa học và Công nghệ đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học và công nghệ trong vòng 10 năm. Những đề nghị này trở thành định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống đại học cho đến ngày nay.

Ngày nay, Nhật có hơn 725 trường đại học và 518 trường cao đẳng. Chất lượng đào tạo đại học của Nhật được thế giới công nhận. Hiện nay, Nhật có 11 trường đại học được xếp vào hạng “top 200” trên thế giới, với Đại học Tokyo (hạng 19) và Kyoto (hạng 25). Trong thời gian 1997-2001, các nhà khoa học Nhật công bố khoảng 336,858 bài báo khoa học, chiếm 9,3% tổng số bài báo khoa học trên thế giới. Số ấn phẩm khoa học của Nhật đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Anh và Đức
hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật, học đại học tại nhật bản, Dai hoc nhat, dai hoc nhat ban, đại học nhật, đại học nhật bản, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, đại học ở nhật bản, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật, đại học tại nhât bản, dai hoc o nhat ban, dai hoc tai nhat ban, học đại học nhật bản, hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban,

Các trường đại học tại Nhật bản tuyển sinh

, hoc dai hoc tai nhat, điều kiện vào đại học nhật bản, dieu kien vao dai hoc nhat ban, tuyển sinh đại học ở nhật, tuyen sinh dai hoc o nhat, Đại học nhật bản, dai hoc nhat ban, dai hoc nhat, đại học nhật, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, truong dai hoc, trường đại học, trường đại học ở nhật, truong dai hoc o nhat, tuyen sinh dai hoc, tuyen sinh dai hoc
Nhật Bản là một trong những quốc gia có hệ thống giáo dục lâu đời và ổn định nhất châu Á. Tuy nhiên, ngày nay các trường đại học tại đây đang chạy đua tìm ra những cách thức mới để thu hút sinh viên.
dai hoc nhat ban Nhiều năm tỉ lệ sinh ở mức thấp khiến dân số trẻ Nhật Bản giảm mạnh, ngày càng có nhiều trường đại học khó có thể tìm đủ sinh viên cho các lớp học và khuôn viên trong trường.

Tình trạng dân số già của Nhật Bản còn ảnh hưởng tới nhiều khía cạnh xã hội khác, trong đó có hệ thống giáo dục cấp thấp khi hàng trăm trường cơ sở và trung học phải đóng cửa hoặc hợp nhất với nhau trong hai thập niên qua. Song gần đây, nó mới ảnh hưởng tới hệ thống giáo dục ở mức cao hơn.

Làn sóng của Nhật Bản thời hậu chiến bắt đầu sớm hơn Mỹ. Kết quả là, theo thống kê dân số học, số người Nhật Bản ở độ tuổi 18 đã đạt đỉnh 2,05 triệu người năm 1992, khi những đứa trẻ của làn sóng đến lúc bước chân vào các giảng đường đại học. Con số này giảm dần đều qua từng năm và đạt 1,3 triệu người trong năm nay, ước tính trong hai năm tới, còn tiếp tục giảm xuống còn 1,21 triệu người.

Như vậy, theo Bộ Giáo dục và nhóm các trường đại học thì năm nay gần 1/3 trên tổng số 707 trường đại học tư và công với chương trình kéo dài bốn năm, sẽ không thể có đủ sinh viên cho tất cả các khoa. Có khoảng gần một nửa học sinh trung học Nhật Bản theo học đại học.

Tại Đại học Kinh tế Fukuoka ở Kyushu, một hòn đảo phía nam Nhật Bản, cơ quan hữu quan đã đối phó bằng cách phê chuẩn dự án trị giá 50 triệu USD để xây dựng khu ký túc xá cao cấp, với tất cả 700 phòng riêng lẻ - kiểu khuôn viên xa xỉ so với mô hình ký túc xá truyền thống Nhật Bản, tất cả đều được kết nối Internet.
Rất nhiều trường đại học đã ‘’đối phó’’ bằng cách áp dụng những công cụ mới để ‘’săn’’ sinh viên tương lai, như người nước ngoài hay lớp ‘’sinh viên bạc’’ - những người đã nghỉ hưu nhưng vẫn đi học. Trong tháng 3, Trường Đại học Osaka đã cấp bằng tiến sĩ toán học cho một kỹ sư 71 tuổi - người đã đăng ký học ở trường sau khi nghỉ hưu.

Trường này còn thực hiện chính sách giảm học phí xuống còn 590.000 yen, vào khoảng 5.000 USD. Fukuoka còn mở ra chuyên ngành ‘’kinh doanh danh tiếng’’, chuyên đào tạo nghệ sĩ chuyên nghiệp sau khi nhà trường thực hiện một cuộc thăm dò và thấy rằng, rất nhiều bạn trẻ Nhật Bản muốn theo đuổi các ngành mới như âm nhạc hơn là những vị trí ‘’làm công ăn lương’’ mà các thế hệ trước từng làm.

Viễn cảnh các trường đại học phải đua tranh với nhau để giành sinh viên đã tạodai hoc nhat ban ra ít nhiều lo lắng về tương lai giáo dục cấp cao ở Nhật. Kể từ khi thành lập năm 1877 và là một trường đại học hiện đại đầu tiên của quốc gia, Đại học Tokyo cùng với các trường đại học khác qua kỳ thi đầu vào được coi là bộ máy chính của xã hội để tuyển chọn thanh niên ưu tú vào các vị trí hàng đầu trong ngành kinh doanh và những cơ quan chính phủ. Rất nhiều người quan ngại rằng, bộ máy này có suy yếu nếu các trường đại học giảm ‘’mức chuẩn’’ để thu hút sinh viên.

Nhưng ở một đất nước mà giáo dục tại bậc cao hơn (bốn năm) luôn được xem là cửa ngõ bước vào công việc, sự nghiệp tương lai, nhiều quan chức lại hoan nghênh sự cạnh tranh và cho rằng, nó sẽ thúc đẩy các trường hoặc phải cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, hoặc đi vào ngõ cụt. Atsushi Hamana, Hiệu trưởng Trường Đại học quốc tế Kansai ở Miki nói, các trường đang nhận thức rõ là, giới trẻ hiện nay trên thực tế luôn muốn học hỏi mọi kỹ năng để cạnh tranh trong một nền kinh tế toàn cầu.
đại học ở nhật, dai hoc o nhat, truong dai hoc, trường đại học, trường đại học ở nhật, truong dai hoc o nhat, tuyen sinh dai hoc, tuyen sinh dai hoc, đại học tại nhật, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật bản, dai hoc tai nhat ban, học đại học tại nhật, hoc dai hoc tai nhat, điều kiện vào đại học nhật bản, dieu kien vao dai hoc nhat ban, tuyển sinh đại học ở nhật, tuyen sinh dai hoc o nhat

Học Cao đẳng, Đại học tại Nhật bản

, học đại học, học đại học tại nhật, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật bản, hoc dai hoc tai nhat ban, hoc cao dang dai hoc tai nhat, học cao đẳng đại học tại nhật bản, học cao đẳng, hoc cao dang, hoc cao đảng tại nhật, hoc cao dang tai nhat, học cao đẳng tại nhật bản, hoc cao dang tai nhat banhoc cao dang tai nhat, học cao đẳng tại nhật bản, hoc dai hoc
cao dang dai hoc tai nhatHọc Cao đẳng, Đại học tại Nhật bản - Để du học Nhật Bản, học sinh phải học tại trường tiếng ở Nhật từ 1,5 năm đến 2 năm mới có thể thi vào trường đại học. Sau đó, chuyển lên học tại các trường Dạy Nghề, Cao Đẳng hay Đại Học, cũng có một số ít trường Đại Học yêu cầu thi nên việc chọn vào học tại các trường có chuyên ngành mà mình muốn học bạn nên xem kỹ trường đó có yêu cầu thi hay không.
Riêng nghiên cứu sinh, phần lớn chỉ xét hồ sơ là cho nhập học (trước khi nộp đơn phải tìm giáo sư nhận hướng dẫn). Còn cao đẳng, trường kỹ thuật - chuyên nghiệp thì tổ chức thi tuyển hoặc xét hồ sơ căn cứ trên kết quả thi tiếng Nhật, thi môn học... Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, nếu hội đủ điều kiện Bộ GD&ĐT quy định có thể học lên ĐH.
Thời gian các hệ học
Đại học:
Sinh viên chính thức học 4 năm, nhưng học ngành y, nha, thú y học 6 năm. Sinh viên dự thính học một môn học đặc thù nào đó; điều kiện nhập học và số môn học được chấp nhận do dự thính tùy theo mỗi trường.Sau đại học:
Chương trình master học 2 năm và chương trình tiến sĩ (doctor) học 5 năm.
Chương trình tiến sĩ phần lớn chia thành: Chương trình tiền kỳ tương đương với master (2 năm), và chương trình hậu kỳ (3 năm). Chương trình học lấy tiến sĩ của y, nha khoa và thú y là 4 năm. Tùy theo trường ĐH, thời gian quy định học lấy tiến sĩ có thể khác nhau.
Cao đẳng:
Học 2 năm, nhưng có khoa như điều dưỡng học 3 năm. Trường kỹ thuật - nghiệp vụ: là trường dạy nghề, học từ 1 đến 3 năm (nhưng phần lớn học 2 năm). Trường trung học chuyên nghiệp: dạy nghề 5 năm (có môn học lâu hơn), dành cho đối tượng là học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở.
Để tốt nghiệp ĐH trong 4 năm, sinh viên thường phải lấy được trên 124 môn học; thời gian 6 năm, sinh viên ngành y, nha khoa phải có trên 188 môn học, ngành thú y phải có trên 182 môn học. Về cao học (trên 2 năm), sinh viên cần có trên 30 môn học. Đối với cao đẳng, học 2 năm trở lên, cần có trên 62 môn học; nếu học 3 năm, cần có trên 92 môn học. Còn tốt nghiệp trường kỹ thuật thì thông qua kết quả kỳ thi cuối khóa, thi cuối năm học của trường.
Có 2 cách xin học bổng:
Nộp đơn ở nước ngoài trước khi đến Nhật và nộp đơn sau khi đến Nhật. Hầu hết đối tượng nhận học bổng là sinh viên ĐH, nhà nghiên cứu. Ít có loại học bổng nào cấp toàn bộ kinh phí cho việc du học, phần lớn chỉ trợ cấp sinh hoạt phí, một phần tiền học nên người dự thi đi du học phải tính kỹ mọi phí tổn, chứ không thể chỉ dựa vào học bổng.
Điều kiện nhập học:
Muốn vào các trường Đại học, Cao đẳng của Nhật Bản phải đáp ứng một trong những điều kiện sau:
1.    Hoàn thành 12 năm học phổ thông ở nước sở tại hoặc những người đã hoàn thành xong bậc trung học phổ thông của những trường quốc tế tại Nhật Bản, và đủ 18 tuổi.
2.    Theo Bộ Giáo Dục và Khoa Học, những sinh viên đến từ những nước có chế độ học phổ thông 10 hay 11 năm thì phải theo học “Khóa dự bị đại học”, và đủ 18 tuổi.
3.    Những người đã đỗ ở kỳ thi năng lực tại nước sở tại tương đương với “ Kỳ thi năng lực tốt nghiệp bậc phổ thông” của Nhật Bản.
4.    Những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc có học lực cao hơn, theo điều tra tư cách nhập học của các trường đại học, cao đẳng, chuyên nghiệp và đủ 18 tuổi.
Các giấy tờ cần thiết:
Tùy theo từng trường có thể khác nhau, nhìn chung cần các giấy tờ sau:
1.    Đơn xin học (theo mẫu của trường)
2.    Sơ yếu lý lịch
3.    Bằng tốt nghiệp PTTH hay giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời.
4.    Học bạ PTTH
5.    Giấy tiến cử của hiệu trưởng hoặc giáo viên trường đó.
6.    Giấy khám sực khỏe
7.    Ảnh
8.    Giấy chứng nhận ngoại kiều (trường hợp đang ở Nhật)
9.    (Giấy tờ liên quan đến người bảo lãnh)
Kỳ thi nhập học:
1.    Xét tuyển hồ sơ.
2.    Kiểm tra học lực.
3.    Phỏng vấn
4.    Viết báo cáo hoặc bài tự luận
5.    Kiểm tra một số năng lực khác có liên quan.
6.    Kỳ thi du học Nhật Bản.
7.    Kỳ thi năng lực tiếng Nhật.Kỳ thi du học Nhật Bản (EJU).
Kỳ thi du học Nhật Bản là kỳ thi do JASSO tổ chức, được coi là một phần nội dung thi tuyển dành cho các sinh viên du học tự túc muốn theo học đại học tại Nhật bản. Kỳ thi được tổ chức 1 năm 2 lần, vào tháng 6 và tháng 11, tại Hà Nội và TP. HCM.
Nội dung thi bao gồm:
a)    Thi năng lực tiếng Nhật: Đáng giá trình độ tiếng Nhật (tiếng Nhật hàn lâm) để học ở bậc Đại học Nhật Bản, thời gian thi 120 phút, điểm số từ 0 – 400.
b)    Thi các môn tự nhiên (chọn 2 môn trong 3 môn thi là Vật lý, Hóa học, Sinh vật), thời gian thi 80 phút, điểm số từ 0 – 200.
c)    Thi môn tổng hợp: Đáng giá các kỹ năng cơ bản cần cho các môn đại cương đặc biệt là năng lực lý luận và khả năng tư duy để học tại các trường Đại học của Nhật Bản. Thời gian thi 80 phút, điểm số từ 0 - 200
d)    Thi toán sơ cấp 1 và 2 (đối với chuyên nghành học cần nhiều đến toán) thời gian thi 80 phút, điểm số từ 0 – 200.
Thời gian nộp đơn dự thi đợt 1 từ tháng 2 đến tháng 3, đợt 2 vào tháng 7.
Kỳ thi năng lực tiếng Nhật và Kỳ thi Đại học
Kỳ thi năng lực tiếng Nhật là kỳ thi nhằm đánh giá và công nhận năng lực tiếng Nhật cho người nước ngoài, được tổ chức vào tháng 7 và tháng 12 hàng năm tại nước Nhật và nước ngoài. Kỳ thi tổ chức vào tháng 7 chỉ thi 2 cấp độ là 1 kyu và 2 kyu còn kỳ thi vào tháng 12 thi đủ 4 cấp độ. Những học sinh muốn dự thi vào các trường quốc lập, công lập và một số trường dân lập sẽ phải dự kỳ thi tại trung tâm thi đại học. Hầu hết du học sinh được miễn kỳ thi này, tuy nhiên cũng có một số trường Đại học (chủ yếu đào tạo Y khoa, Nha Khoa) bắt buộc du học sinh phải dự kỳ thi này.
học cao đẳng tại nhật bản, hoc dai hoc, học đại học, học đại học tại nhật, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật bản, hoc dai hoc tai nhat ban, hoc cao dang dai hoc tai nhat, học cao đẳng đại học tại nhật bản, học cao đẳng, hoc cao dang, hoc cao đảng tại nhật, hoc cao dang tai nhat, học cao đẳng tại nhật bản, hoc cao dang tai nhat ban, hoc dai hoc, học đại học, học đại học tại nhật, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật bản, hoc dai hoc tai nhat ban, hoc cao dang dai hoc tai nhat, học cao đẳng